Sài đất, còn được gọi là húng trám, ngổ núi, cúc nháp, cúc giáp hoặc hoa múc. Cây có tên khoa học là Wedelia calendulacea (L.) Less. và thuộc họ Các Asteraceae (Compositae). Đây là một loại cây sống dai và mọc lan bò trên đất. Thân của cây có màu xanh với lông trắng nhỏ. Lá của cây có hình bầu dục thon dài với hai đầu nhọn và mép lá có răng cưa nông. Hoa của cây tạo thành các cụm hoa hình đầu màu vàng tươi.
Nội dung chính:
Cây sài đất phổ biến ở miền Bắc Việt Nam và thích ứng với nhiều điều kiện khí hậu ẩm mát.
Gần đây, do nhu cầu sử dụng trong y học. Nhiều người đã bắt đầu trồng cây này để sử dụng làm thuốc.
Việc trồng sài đất rất đơn giản. Chỉ cần chọn một khu vực có đất tốt và ít ẩm. Sau đó cắt các phần thân của cây thành từng khúc dài khoảng 20-30cm hoặc chọn các phần thân đã có rễ sẵn để gieo vào lòng đất. Sau khoảng 15-20 ngày, cây sài đất sẽ mọc và có thể thu hoạch sau một tháng. Cây có thể được cắt gần mặt đất và sau đó tưới nước và bón phân để thu hoạch lần nữa sau khoảng nửa tháng.
Sài đất có thể được sử dụng tươi hoặc khô, nhưng hiệu quả của cây tươi có vẻ cao hơn. Một phương pháp ổn định để làm khô cây là cho các bộ phận của cây vào hơi nước sôi trong 5 phút trước khi tiến hành việc phơi hay sấy khô.
Tóm lại, Sài Đất (Wedelia calendulacea) là một loại cây sống dai dễ trồng và rất hữu ích trong y học.
Cây này chủ yếu được trồng ở miền Bắc Việt Nam và có thể thu hoạch quanh năm, nhưng tốt nhất vào các tháng 4,5 và 8 khi cây ra hoa.
Thành phần có trong cây sài đất
Cây sài đất là một loại cây đã được nghiên cứu từ năm 1956 bởi T. R. Govindachari và K. Nagarajan. Từ lá của cây, họ đã chiết xuất được một chất lacton gọi là wedelolacton với tỷ lệ 0,05%. Công thức của wedelolacton đã được xác định và trọng lượng phân tử của nó là 314,2. Wedelolacton có cấu trúc vừa là flavonoit vừa là coumarin.
Theo nghiên cứu của Bộ môn Dược liệu Trường Đại học Dược Hà Nội. Trong sài đất có tinh dầu và rất nhiều muối vô cơ. Tuy nhiên, hoạt chất chính trong cây này vẫn chưa được xác định.
Tác dụng của cây sài đất
- Về tác dụng dược lý, theo báo cáo của Bệnh viện Bắc Giang vào năm 1961. Sài đất không có tác dụng kháng sinh mạnh trên các vi khuẩn như Flexneri hay Staphyllococcus. Tuy nhiên, trên lâm sàng lại cho thấy sài đất có hai tác dụng rõ rệt: giảm đau và sốt cũng như kháng sinh hiệu quả mà không gây độc tính.
- Một cuộc theo dõi trên 21 trường hợp viêm nhiễm trùng phần mềm đã cho thấy sài đất có tác dụng chống viêm rất rõ rệt.
- Việc áp dụng sài đất giã nát lên vùng viêm đã làm giảm hiện tượng sưng, nóng và đỏ. Tuy nhiên, lá của cây không có tác dụng trong giai đoạn mưng mủ hoặc áp xe hóa.
- Người ta ở Bắc Ninh, Bắc Giang và các vùng khác thường ăn cây sài đất sống hoặc chế biến kèm với thịt hoặc cá.
- Cây cũng được sử dụng để điều trị các bệnh như rôm sảy, chạy sởi, báng và sốt rét.
- Bệnh viện Bắc Giang đã áp dụng thành công cây này để điều trị các loại viêm tấy ngoài da, khớp xương, răng hay các vết thương.
Cách dùng cây sài đất
Cây tươi và cây khô là hai hình thức sử dụng của cây sài đất.
- Khi dùng cây tươi, cần lấy 100g lá cây giã nhuyễn với ít muối ăn, sau đó trộn với 100ml nước đã đun sôi để nguội. Sau khi lọc lấy nước, có thể uống một hoặc hai lần trong ngày. Bã của cây cũng có thể được áp vào các khu vực bị sưng hoặc đau.
- Đối với cây khô, cần dùng 50g lá và thêm nửa lít nước. Sắc và cô cho đến khi chỉ còn lại khoảng 200ml nước, sau đó chia thành một hoặc hai phần để uống trong ngày. Thời gian điều trị thông thường kéo dài từ 1-2 ngày, nhưng có thể kéo dài tới 5-7 ngày.
Hiện nay đã có các hình thức chế biến khác nhau của cây sài đất như xirô, thuốc bột hay viên thuốc.
Tuy nhiên, việc chọn loại hình tiện ích nhưng vẫn hiệu quả phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, trong báo cáo này có một số chú ý liên quan đến nhầm lẫn về tên gọi của cây sài đất.
Có hai loại cây thường được gọi là sài đất, một là cây lỗ địa cúc và một là bành kỳ cúc ( tên khoa học: Wedelia prostrata). Tuy nhiên, chưa có thông tin chi tiết về cây lỗ địa cúc và không có nghiên cứu liên quan.
1. Theo các nguồn tài liệu từ Trung Quốc và Việt Nam, cây lỗ địa cúc đã được sử dụng để chữa trị nhiều bệnh như viêm amyđan, viêm phổi, cao huyết áp và mụn nhọt.
Một số báo cáo chỉ ra rằng việc sử dụng lá cây tươi mang lại hiệu quả tốt hơn so với lá khô. Tuy nhiên, trong báo cáo không có mô tả rõ về loại cây này và chỉ có chú thích cho biết ở Bắc Giang được gọi là sài đất.
Tóm lại, hiện nay đã có các phương pháp sử dụng khác nhau của cây sài đất để điều trị các bệnh liên quan. Tuy nhiên, việc chọn loại hình phù hợp cần dựa vào từng trường hợp cụ thể. Và cần tiếp tục nghiên cứu để giải đáp các câu hỏi liên quan đến tác dụng và tên gọi của cây sài đất.
2. Cây sài đất giả, có tên khoa học là Lippia nodiflora (L) L. C. Rich., thuộc họ Cỏ roi ngựa Verbenaceae.
Là một loại cây dễ phân biệt thông qua các đặc điểm như cành gần như vuông, lá hình thìa với mép trên có răng cưa và mép dưới nguyên. Hoa của cây này nhỏ màu xanh nhạt. Có khi là vàng hay hồng trắng, mọc thành bông ở nách lá. Sau khi kết quả thì dài ra giống như bắp ngô nhỏ với hàng quả khô màu nâu đen trên đó.
Mặc dù ít được sử dụng trong y học ở Việt Nam. Theo một số tác giả, ở Nha Trang người ta uống cây này thay cho chè. Hoặc sử dụng để chữa viêm phổi và các bệnh đường hô hấp. Tại Ấn Độ, cây này được sử dụng để giúp tiêu hoá và thông tiểu.